Chương 1 : Trái đất là một hành tinh được dịch từ Fundamentals of Geophysics của WILLIAM LOWRIE.
Chương 1 tìm hiểu về Trái đất . Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu rõ về Hệ mặt trời cụ thể là đối tượng Trái đất trong hệ mặt trời.
1.1 HỆ MẶT TRỜI
1.1.1 Khám phá và mô tả các hành tinh
Người ta cần phải đi đến một nơi xa xôi, hoáng vắng, tránh xa các ảnh hưởng ô nhiễm của môi trường mới có thể biết được bầu trời vào ban đêm dưới mắt người xưa như thế nào. Nhìn từ nơi hoang dã, bầu trời xuất hiện dưới mắt thường giống như một vòm các điểm sáng, cố định tương đối với nhau trong không gian. Các nhà quan sát thời kỳ sớm trước đây nhận thấy rằng dạng các sao thường xuyên di chuyển và sử dụng hiện tượng này làm cơ sở để xác định thời gian của các sự kiện. Hơn 3000 năm trước, vào khoảng thế kỷ thứ mười ba trước Công nguyên, năm và tháng được tập hợp trong lịch làm việc của người Trung Quốc, và khoảng 350 trước Công nguyên, nhà thiên văn học Trung Quốc Shih Shen đã biên soạn một danh mục gồm 800 ngôi sao. Người Hy Lạp cổ đại quan sát thấy một số thiên thể di chuyển qua lại trên nền trời cố định này và gọi chúng là các hành tinh, có nghĩa là những kẻ lang thang. Ngoài Mặt trời và Mặt trăng, mắt thường có thể phân biệt được các hành tinh Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ.
Các khái niệm hình học đã được đưa vào thiên văn học bởi nhà triết học Hy Lạp Thales vào thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Bước tiến này đã cho phép người Hy Lạp phát triển thiên văn học lên đỉnh cao nhất trong thế giới cổ đại. Aristotle (384 -322 BC) đã tóm tắt các công trình Hy Lạp đã được thực hiện trước thời của ông và đề xuất một mô hình vũ trụ với Trái đất là trung tâm. Mô hình địa tâm này đã thấm nhuần trong niềm tin tôn giáo và duy trì ảnh hưởng cho đến cuối thời Trung cổ. Đó không phải là mô hình không thể thay đổi; Aristarchus of Samos (c.310, c.230 TCN) đã xác định kích thước và khoảng cách của Mặt trời và Mặt trăng so với Trái đất và đề xuất một vũ trụ nhật tâm (trung tâm là mặt trời). Các phương pháp lượng giác được phát triển bởi Hipparchus (190 -120 BC) cho phép xác định khoảng cách thiên văn bằng cách quan sát các vị trí góc của các thiên thể. Ptolemy, một nhà thiên văn học Greco-Ai Cập vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, đã áp dụng các phương pháp này cho các hành tinh đã biết và có thể dự đoán chuyển động của chúng với độ chính xác đáng kể với thiết bị đã có vào thời đó.
Cho đến khi phát minh ra kính viễn vọng vào đầu thế kỷ XVII, dụng cụ chính được các nhà thiên văn học sử dụng để xác định vị trí và khoảng cách của các thiên thể là thước đo độ cao thiên văn. Thiết bị này bao gồm một đĩa bằng gỗ hoặc kim loại với chu vi được khắc độ, tại tâm của nó được chốt một con trỏ di động được gọi là alidade. Khoảng cách góc có thể được xác định bằng cách nhìn vào một vật thể với alidade và đọc ra độ cao của nó từ thang chia độ. Không biết ai là Người phát minh ra dụng cụ đo độ cao thiên thể, nhưng người ta thường gán cho Hipparchus (190 -120 trước Công nguyên). Nó vẫn là một công cụ quan trọng cho các nhà hàng hải cho đến khi phát minh ra kính lục phân vào thế kỷ thứ mười tám.
……
Biên dịch: TS. Nguyễn Ngọc Thu, ThS. Trần Thị Bích Thủy, Ks. Nguyễn Thiên Thuyên, Ks.Lê Đinh Tý
Liên hiệp Khoa học Địa chất, Môi trường và Địa vật lý
Link Google Drive: https://drive.google.com/drive/u/3/folders/1JZ90DI6hXCL0hRjhCmEVUeIFbn9V6y6X
Hoặc tải link đính kèm bên dưới.